Từ nội thành Hà Nội, một ngày nghỉ cuối tuần tôi cùng các bạn làm báo và nhiếp ảnh lên xe theo Quốc lộ 32 khoảng trên 40 km, đi qua thị xã Sơn Tây vài cây số nữa rồi rẽ trái, chúng tôi đến thăm một ngôi đình làng cổ gọi là Đình Tây Đằng. Đình tọa lạc tại thôn Đông, xã Tây Đằng (nay là thị trấn Tây Đằng), huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Biết tôi là một học trò được sinh ra và lớn lên từ một gia đình truyền thống là Làng mộc Chàng Sơn, có ông và bố, chú, anh đều xuất thân làm thợ mộc mà ngày trước bác và bố đều làm các loại đình, chùa, miếu, nhà thờ cổ. Với những điều đã học và sự tìm hiểu về những công trình kiến trúc cũ, các bạn nhờ tôi giới thiệu. Vì thế nên tôi chọn ngôi đình Tây Đằng để kể cho mọi người cùng nghe và biết cùng tham khảo.
Nếu xét về mặt kiến trúc gỗ các đình làng ở Bắc bộ thì thấy đây là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật gỗ tuyệt tác tiêu biểu, độc đáo vào loại bậc nhất ở xứ Đoài (phía Tây kinh thành Thăng Long). Ngôi Đình thờ ba vị Thành hoàng gồm: Thánh Tản Viên, Cao Sơn đại vương và Quí Minh đại vương, đó là những vị anh hùng văn hoá huyền thoại, biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc trong việc chế ngự thiên nhiên như thiên tai, giông bão, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm…
Căn cứ vào dấu vết kiến trúc và nghệ thuật trang trí hiện còn tồn tại để đối chiếu với các thời điểm lịch sử thì có thể khẳng định, đình Tây Đằng có niên đại khởi dựng vào thời kỳ Nhà Mạc, thế kỷ XVI. Đây là một thời kỳ đất nước tương đối yên bình, nền kiến trúc trong nước phát triển rất mạnh và rực rỡ tương đương với thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu. Với những kết quả kiểm tra bằng phương pháp khoa học cũng đã khẳng định kết luận này. Trải qua nhiều thế kỷ xây dựng và tồn tại đến ngày nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, và lần gần đây nhất là vào năm 2002 – 2004.
Kiến trúc của đình gồm có: Cổng đình, Hồ bán nguyệt, nghi môn, tả mạc, hữu mạc, đại đình, giếng đình và một số hạng mục phụ trợ khác. Cổng đình được xây khá đơn giản, với hai trụ liền tường bao. Trụ có tiết diện hình vuông, với đầu cột bổ trụ ô lồng đèn, không có hoa văn trang trí. Hạng mục này không mang nhiều giá trị nghệ thuật, chủ yếu gắn với chức năng cửa ra, vào và để bảo vệ khuôn viên, kiến trúc của đình.
Hồ bán nguyệt ở ngay vị trí phía trước sân đình, trong hồ thả sen. Ven hồ có hai đường dẫn vào nghi môn và sân đình.
Nghi môn được xây theo dạng tứ trụ. Hai trụ lớn nằm ở hai bên của trục thần đạo. Đỉnh trụ đắp tứ phượng, đầu quay về bốn hướng, đuôi chụm lại tạo thành hình trái giành. Phía dưới phượng là phần mui luyện, với bốn mặt đắp trang trí hình hổ phù uy nghi. Tiếp đến là các ô lồng đèn, có trang trí đề tài tứ linh (long- ly- quy- phượng). Thân trụ soi gờ kẻ chỉ, bên trong đắp nổi các câu đối bằng chữ Hán. Đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai trụ nhỏ ở hai bên, có kết cấu tương tự trụ biểu lớn, với đỉnh trụ đắp hình nghê chầu, tiếp theo là ô lồng đèn được xây vuông trổ thủng, thân trụ đắp nổi các câu đối chữ Hán.
Phía sau nghi môn là khoảng sân rộng. Phần trên trục thần đạo được tôn cao hơn xung quanh một cấp nền, tạo thành kiểu sân rồng để phục vụ việc tế lễ trong hội. Sân được lát gạch Bát Tràng, có kích thước (30 x 30)cm.
Tả – hữu mạc nằm ở hai bên phía trước đại đình, được khởi dựng vào năm Canh Thân (1860). Mỗi toà đều có 3 gian, 2 chái, kết cấu chồng diêm, mái lợp ngói mũi hài, góc mái dạng đao cong, có trang trí hình rồng.
Đại đình có bố cục mặt bằng dạng chữ Nhất, quay hướng Nam (hơi ngả sang Tây, gồm 3 gian, 2 chái lớn. Nền đình được bó vỉa bằng đá tảng, lát gạch Bát Tràng, cao hơn sân 60cm – khoảng tương ứng với bậc tam cấp. Đình có bộ mái thấp, lớn, lợp ngói mũi hài nhiều lớp, với 4 mái xòe rộng, trùm ra ngoài vỉa nền và hai chái. Phần mái có tỉ lệ bằng 2/3 chiều cao của ngôi đình. Các đường bờ nóc, bờ dải được trang trí hoa chanh. Hai đầu bờ nóc là hai con Lân cõng trên lưng một vân xoắn lớn.
Hệ khung đỡ mái của đình tì lực lên 6 hàng cột gỗ, với tổng số 48 cột lớn, nhỏ. Chu vi cột cái 750cm, cột quân 500cm, cột hiên 280cm. Các cột đều được làm theo kiểu “thượng thu- hạ thách”, đứng trên chân tảng bằng đá xanh theo kiểu thức âm – dương, trên tròn dưới vuông. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, được hình thành qua liên kết các bộ vì. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái, được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hầu hết các cấu kiện đều được làm bằng gỗ mít. Trên các cấu kiện gỗ của tòa đại đình đều có các đề tài trang trí rồng, lân, nghê, hoa lá, vân xoắn…
Điểm đặc biệt trong kiến trúc đình Tây Đằng và các ngôi đình cùng niên đại thời Mạc (thế kỷ XVI), như Đình Thanh Lũng (Ba Vì), là còn có thêm bộ phận cánh gà đỡ dưới dạ các xà dọc (tai cột). Cấu kiện này bao gồm hai thân gỗ, có đặc điểm dài ở trên, ngắn ở dưới. Một số cánh gà còn có hai đấu vuông thót đáy kê ở giữa, với thân ván dày, bên dưới còn được chạm khắc tỉ mỉ các đề tài rồng, cá chép hóa rồng. Đình Tây Đằng hiện còn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn hệ thống cánh gà có niên đại sớm nhất và hiếm thấy trong di tích cổ truyền ở nước ta còn đến ngày nay.
Trước đây, bộ khung gỗ của đại đình còn có liên kết ở phía dưới, đó chính là hệ thống dầm sàn. Dầm dọc nối các cột trong cùng một bộ vì, dầm ngang nối các cột (cùng hàng) của các bộ vì với nhau. Ván sàn được lát trên các dầm này. Ngày còn nhỏ tôi đến các đình làng, trong đó có đình làng tôi đều có hệ thống sàn gỗ, gọi là “sạp đình”. Hiện nay các ngôi đình như Mông Phụ (xã Đường Lâm), thị xã Sơn Tây. Đình So (xã Cộng Hòa) huyện Quốc Oai vẫn còn nguyên hệ thống sạp đình bằng gỗ. Ngoài gian giữa, tất các các gian đều có sàn. Tuy nhiên, hiện nay sàn gỗ của đình Tây Đằng không còn nữa. Nền đình đều được lát gạch bát đỏ. Tại gian giữa tòa đại đình, phía trước bài trí sập thờ, hương án, án gian và các đồ thờ tự. Gian chái bên phải đình đặt ban thờ quan Bộ Hộ, các gian bên được để trống, tạo không gian rộng rãi cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng, xã.
Hậu cung là nơi thờ Thành hoàng, lưu giữ các hiện vật linh thiêng và đồ thờ cúng. Cung này được làm tại vị trí trung tâm ngay nửa sau, khoảng giữa hai cột cái và cột quân của gian giữa đại đình, với hệ thống ván sàn bằng gỗ, cao 1,9m so với mặt nền. Cửa hậu cung được làm theo kiểu bức bàn, với 6 cánh, có trang trí tứ linh. Phía trước cửa hậu cung là khám gian bưng kín, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Phía trên khám này được trang trí hai lớp, với bên trong chạm nổi đề tài rồng chầu hoa cúc, bên ngoài chạm hình rồng phun lửa, mắt lồi, trong tư thế nhìn xuống, có đao mác lớn, mũi to, thân tạo vẩy dầy, phía bên trái phần đuôi rồng còn có hình người ngồi, như thể hiện khát vọng cầu nguồn nước. Toàn bộ phần phía trước hậu cung được sơn son thếp vàng. Hai mặt bên hậu cung được bưng kín bằng các đố lụa, có trang trí đề tài Phượng chầu chữ thọ. Bên trong cửa hậu cung là nơi trang trọng, thâm nghiêm được đặt ba ngai thờ Thành hoàng. Toàn bộ không gian bên dưới gác lửng hậu cung được để trống, không bài trí di vật.
Các mảng chạm khắc trang trí trên kết cấu gỗ của đình Tây Đằng, như tại đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đấu, ván nong, ván lá đề, con rường, vì nóc… được tạo tác qua kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng đã đạt đến đỉnh cao, tạo nên những tuyệt tác về điêu khắc gỗ. Đề tài trang trí cũng rất phong phú, đa dạng về loại hình, gồm linh vật, hình tượng thiên thần, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên, cỏ cây, hoa lá, rồng, lân, hươu, phượng, voi, ngựa, lân hí cầu, voi đi cày, voi phi (voi lồng), hình tượng hươu trong thế chạy phun lửa, thế nằm nghỉ trên một vân xoắn…
Đình Tây Đằng không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương, nơi hội tụ cộng đồng làng xã, mà còn là một “bảo tàng văn hoá, nghệ thuật dân gian” sống động, là nguồn tư liệu sáng giá để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hoá của cộng đồng và dân tộc.
Với vị trí và tầm quan trọng của ngôi đình cổ, để bảo tồn và giữ gìn cho thế hệ hôm nay và mãi về sau…theo đề nghị của lãnh đạo thành phố Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2383/QĐ-TTg, xếp hạng Đình làng Tây Đằng thuộc thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là “Di tích Quốc gia đặc biệt”!
KS. Nguyễn Quang Tình