Làng Văn La, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh – một trong “Bát danh hương” nổi tiếng tỉnh Quảng Bình – có gia tộc họ Hoàng được người xưa ví “Việc quan họ Hoàng – việc làng họ Đỗ”, đại ý nói người họ Hoàng nhiều người đỗ đạt, làm quan to, tạo phúc cho dân chúng.

Ân tình sâu nặng

Các bậc tiền nhân trong họ cũng đã để lại cho hậu thế 2 báu vật được lưu truyền đến tận ngày nay là “Hoàng thị gia huấn” và “minh chuông”. Cháu con sau này luôn lấy làm hãnh diện, xem đó là báu vật, là linh hồn dòng tộc, thiêng liêng sống mãi trong hàng trăm năm qua.

Báu vật họ Hoàng ở Văn La - Ảnh 1.

Cụ Hoàng Tư Bảnh bên tấm bia khắc “Hoàng thị gia huấn” trong nhà thờ họ Hoàng

Hầu như sáng nào ông Hoàng Tư Bảnh (74 tuổi, cháu đời thứ 10 của họ Hoàng) cũng đến mở cửa chính của nhà thờ họ, rồi kính cẩn đọc những lời răn dạy trong “Hoàng thị gia huấn”. Trong đó có câu: “Tiền nhân khai phá đầu nguồn mở rộng/ Hậu thế đào sâu lạch suối chảy nhanh”, nghĩa là: “Từ nay về sau, theo gót cha ông, phải cần cù lao động để không hổ thẹn với những người đã sinh ra dòng họ này”.

Báu vật họ Hoàng ở Văn La - Ảnh 2.

Cụ Hoàng Tư Bảnh bên mộ phần của danh tướng Hoàng Kế Viêm

Từ nhỏ, ông Bảnh cũng như cháu con dòng họ Hoàng đã thấm thía, thuộc làu những lời răn dạy của tổ tiên.

Lật lại quá khứ, “Hoàng thị gia huấn” là tấm bia bằng đá, được khắc chữ Hán do bậc danh thần Hoàng Kim Xán (1776-1832), xưa làm đến chức Thượng thư Bộ Hình qua 2 đời vua nhà Nguyễn.

Cụ Xán xuất thân làm Tri huyện Lệ Thủy, qua bao nhiêu chức vụ, thăng lần lượt đến sung Kinh lược Đại sứ Nam Định rồi giữ chức Thượng thư Bộ Hình. Đi đến đâu, ông cũng xét việc kiện tụng, trừng trị kẻ gian không ai không sợ hãi; đối với quan tham, ông cho điều tra truy xét tường tận, xử chém đầu tùy mức độ, tịch thu tài sản, cấp phát cho dân nghèo. Cụ Xán là vị quan chính trực, luôn giữ phẩm giá trong sạch, đi đâu cũng được dân thương mến nên vua phong tặng “Vinh lộc đại phu” – tức vị quan có phúc đức, vẻ vang.

Khi triều đình thiết lập 32 tỉnh, ông được đổi sang giữ chức Thượng thư Bộ Binh kiêm Tổng đốc các xứ Nam Định và Hưng Yên. Vì từng đi kinh lược ở các vùng đất này nên triều đình rất tin vào tài năng, uy tín của ông. Sau khi đến lỵ sở, ông dâng sớ lên triều đình trình bày 17 điều để làm hưng lợi và trừ bỏ mối hại, nhưng tiếc là chưa thi hành được thì ông lâm bệnh và mất chỉ sau 1 năm nhậm chức, lúc ấy 57 tuổi.

Vua Minh Mạng nói với quan quân rằng “Hoàng Kim Xán từng làm việc ở trong kinh ngoài trấn, khó nhọc đã lâu. Nay được tin Xán mất, lòng ta cảm động rớt nước mắt và vô cùng thương tiếc. Vậy nên gia phong làm Hiệp biện Đại học sĩ”. Vua Tự Đức sau này xét công lao, tài năng của ông nên đưa ông vào đền Hiền Lương để thờ một cách trang nghiêm.

Trước khi mất, thấm thía với công lao, ân tình sâu nặng và sự dày công vun đắp của tổ tiên, với ý muốn duy trì và tiếp nối truyền thống khoa bảng của dòng họ cho hậu thế, cụ Hoàng Kim Xán đã viết “Hoàng thị gia huấn” – nghĩa là lời dạy con cháu họ Hoàng.

Di ngôn cho hậu thế

Ở làng Văn La hiện có 3 ngôi nhà thờ họ Hoàng với 3 nhánh khác nhau. Trong đó, một nhà thờ họ chính đang lưu giữ tấm bia “Hoàng thị gia huấn” được chạm khắc bằng chữ Hán, đặt trang trọng bên cạnh bàn thờ, phía trên treo bản dịch bằng tiếng Việt.

Mở đầu, cụ Xán dạy rằng: “Hãy giữ mãi đạo hiếu/ Phải lấy đạo làm phép tắc tu thân”, nghĩa là: “Đạo làm con luôn ghi nhớ, nhà ta xuất thân từ cảnh hàn vi, nay được hiển đạt há chẳng phải là do tổ tiên ta đã tích đức mà có hay sao”.

Báu vật họ Hoàng ở Văn La - Ảnh 3.

Khu đền thờ và lăng mộ danh tướng Hoàng Kế Viêm

Tiếp đó: “Phàm ngã tử tôn đối nghi thế niệm, nhập hiếu, xuất để, tử đệ chức võ hoặc khuy. Hành lệ học cần, môn địa chi cao như khả úy…”, nghĩa là: “Con cháu ta cần ghi nhớ, giữ lấy đạo hiếu. Phận con em không được thiếu sót bổn phận của mình. Trau dồi đức hạnh, cần mẫn học hành để địa vị của dòng họ được nâng cao, đó là điều mong ước”.

Báu vật họ Hoàng ở Văn La - Ảnh 4.

Chiếc “minh chuông” gia tộc họ Hoàng

Câu khác rất thâm thúy: “Cung kính lúc gần các bậc trên/ Khiêm nhường lúc gặp mọi tầng lớp”. Lời cụ Xán răn dạy cháu con phải luôn tiết kiệm để gia đình sung túc, làm điều thiện để được tiếng tốt; phải dứt bỏ thói kiêu căng của kẻ giàu sang quyền quý, giữ nếp thanh bạch của một dòng họ danh tiếng xưa nay. Lúc hiển đạt cần nêu gương tốt với người, nếu có nghèo hèn cũng phải giữ lấy thanh danh dòng họ…

“Bởi vậy, con cháu dòng họ Hoàng đời đời nối tiếp nhau giữ trọn đạo hiếu, dù sống trong cảnh sang giàu hay nghèo hèn phải luôn tu thân, trau dồi đức hạnh, khiêm tốn, giữ nếp sống thanh bạch, liêm khiết… Lời của cụ như là kim chỉ nam để cho con cháu hướng mà đi” – cụ Hoàng Tư Bảnh bày tỏ.

“Hoàng thị gia huấn” đúc kết: “Đắp xây gian khổ như leo núi/ Phá hủy dễ dàng tựa đốt long”, được cụ Bảnh giải thích đây thực sự là di ngôn cho hậu thế đời sau phải tự lấy đó mà răn mình, lấy đó mà cố gắng.

Trong chiến tranh, nhà thờ họ Hoàng bị bom Mỹ phá hỏng. Riêng tấm bia đá khắc “Hoàng thị gia huấn” được con cháu cố công cất giữ nên phần nội dung khá nguyên vẹn nhưng cũng đã phai mờ theo năm tháng. Mãi đến năm 2000, cháu con người góp công, người góp của để phục dựng lại nhà thờ họ Hoàng.

Giữ trọn đạo nhà

Gia phả họ Hoàng ghi cụ Hoàng Kim Xán có 3 vợ, 3 thiếp và 13 người con. Thể theo di ngôn mà “Hoàng thị gia huấn” răn dạy, các con của cụ tiếp nối truyền thống khoa bảng của cha, giữ trọn đạo nhà, tu chí học hành, thi cử đỗ đạt và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Con trưởng Hoàng Kế Thảng được bổ nhiệm chức Viên ngoại lang Bộ Hình – hàm chánh nhất phẩm; con thứ Hoàng Kế Nhiệu giữ chức Hữu phó Đô đốc Ngự sử trong Đô Sát Viện…

Nhưng nổi tiếng hơn cả là cụ Hoàng Kế Viêm (1820-1909) – con của bà Lê Thị Hoành (vợ thứ 3) – được tấn phong Hiệp biện Đại học sĩ và trở thành một danh tướng yêu nước, thương dân thời nhà Nguyễn. Cụ giữ đến chức Thống đốc quân vụ Tiết chế Bắc Kỳ, nổi tiếng với nhiều trận đánh chống Pháp ở Hà Nội dưới thời nhà Nguyễn.

Nhân trùng tu đền thờ dòng họ, cụ Hoàng Kế Viêm đã cho đúc chiếc “minh chuông” và tự mình soạn thảo bài văn ngắn bằng chữ Hán khắc lên chuông để cung tiến dòng tộc và ý nghĩa dạy bảo cháu con. Chiếc chuông cao 75 cm, bề ngang 55 cm và nặng hơn 7,5 kg. Thoạt nhìn không có gì đặc biệt nhưng nhìn kỹ thì đỉnh chuông treo đúc hình đôi rồng chầu với nhiều hoa văn tinh xảo. Chuông được khắc chạm chữ Hán 4 mặt ghi niên đại năm Bính Thìn (1856). Quả thực là cổ vật vô cùng quý giá.

“Tiếng chuông trong sáng lan tỏa khắp không trung, với những âm thanh thầm kín, tràn trề, vang vọng kéo dài rực rỡ. Ai nghe mà không khỏi gợi cảm những đức tính thuận hòa tươi đẹp, không khỏi cảm xúc một tấm lòng kính cẩn tôn nghiêm. Ai nghe cũng thấm thía từ các âm tốt lành, có đức, cứ đi xa dần không đứt đoạn nhưng vẫn lắng đọng lại trong lòng những người của thế hệ ngày mai. Tự Đức năm thứ 9, mùa xuân năm Bính Thìn. Con út Viêm cúi xin được khắc lên chuông” – nội dung khắc trên chuông.

Cụ Bảnh cho biết cứ mỗi lần giỗ, kỵ, trưởng họ lại mang chuông ra đánh liên hồi, tiếng chuông ngân lên trong lòng con cháu dâng trào cảm xúc tưởng nhớ đến tổ tiên với tấm lòng thành kính, tôn nghiêm. Mỗi hồi chuông là một lời nhắc nhở cháu con lắng đọng ân đức sâu nặng của tổ tiên, khơi dậy những truyền thống, đức tính tốt đẹp của dòng tộc. Từ đó, luôn ra sức học hành, thi cử và làm những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Sau này, do bối cảnh chiến tranh và sợ bị kẻ gian lấy trộm, chuông được con cháu đưa về cất giữ tại Khu lăng mộ và Đền thờ Hoàng Kế Viêm, cách Nhà thờ họ Hoàng chừng 500 m. Khu lăng mộ này được UBND tỉnh Quảng Bình công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011 và đã đệ trình cơ quan chức năng công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia.

Kế thừa truyền thống khoa bảng của tổ tiên và lời răn dạy, cháu con họ Hoàng đời trước nối gót đời sau tiếp tục học hành giỏi giang và thi cử đỗ đạt, thời phong kiến có nhiều người ra làm quan. Sau các cụ Hoàng Kim Xán và Hoàng Kế Viêm, nổi bật còn có cụ Hoàng Trọng Vỹ (đời thứ 7) giữ chức Tuần phủ Quảng Yên, sau được thăng chức Hiệp biện Đại học sĩ.

“Hằng năm, đến giỗ tổ, cháu con họ Hoàng về nhà thờ họ sum họp. Trước bàn thờ gia tiên, trưởng họ lại lấy “Hoàng thị gia huấn” ra đọc một cách trang trọng, tôn kính trước toàn thể cháu con, nhằm nhắc nhở phải ghi lòng tạc dạ và thực hiện theo minh huấn để mãi lưu truyền danh thơm dòng họ.

Ông Trần Hữu Danh, nhà nghiên cứu về lịch sử Quảng Bình, đánh giá ra đời đã gần 200 năm, trải qua thời gian cùng sự vận động và biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, “Hoàng thị gia huấn” vẫn giàu sức sống trong xã hội đương đại. Bản gia huấn này sẽ mãi là di sản tinh thần vô giá của dòng họ Hoàng để răn dạy con cháu.

“Hoàng thị gia huấn” và “minh chuông” thực sự là 2 gia bảo quý cần được bảo tồn, gìn giữ lưu truyền cho hậu thế họ Hoàng và cả người dân mai sau.

Bài và ảnh: Hoàng Phúc